THỐNG KÊ & CNTT
SỔ TAY KIỂM SÁT VIÊN
Áp dụng cùng một căn cứ pháp luật, nhưng hai kết quả khác nhau?
Vụ kiện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Nguyên đơn ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1965, địa chỉ số 72 xã B, huyện C, tỉnh D có nội dung:
Ông Nguyễn Văn A có phần đất 3 công tầm cấy (tương đương 3.900m2) thuộc thửa số 517, tờ bản đồ số 1, tọa lạc số 72 xã B, huyện C, tỉnh D được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 09/12/1992. Đầu năm 1994 do gia đình gặp những biến cố khó khăn trong cuộc sống nên đem cố phần diện tích đất cho ông Phạm Văn Y với giá là 6 chỉ vàng 24k, việc cố có làm giấy tay nhưng tiêu đề ghi chuyển nhượng, không giao thời hạn chuộc mà chỉ nói khi nào có tiền chuộc lại đất, không có ai chứng kiến. Trong giấy tay chỉ ghi nội dung ông Y được làm số đất không có ghi “làm số đất nói trên vĩnh viễn” thế nhưng khi có tiền chuộc lại đất thì phía ông Y thực hiện không đúng lời hứa như đã giao kết, cho rằng đất đã chuyển nhượng, không có cầm cố nên không đồng ý cho chuộc từ đó mới xảy ra tranh chấp đến hôm nay.
Ông Y khởi kiện và giao nộp giấy viết tay, trong đó có nội dung ông đã tự ghi thêm đồng thời ông cung cấp cho Tòa án bản photo không có công chứng, chứng thực và tại phiên tòa ông A yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ, yêu cầu phía ông Y cung cấp bản chính nhưng ông Y không cung cấp được và vụ việc Tòa án hai cấp xét xử nhiều lần giải quyết nội dung trái ngược nhau cụ thể:
Ngày 06/11/2014 ông Y khởi kiện vụ án “Tranh chấp yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và bồi thường thiệt hại tài sản”. Đối với vụ án nêu trên ông Y chỉ yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng, không yêu cầu bồi thường thiệt hại và không cung cấp các chứng cứ gốc chỉ mà có bản photo. Qua đó, ông A có yêu cầu Tòa án thu thập để làm rõ nội dung sự việc, bởi lẽ trong giấy viết tay do ông Phạm Văn Y có phần ông tự viết thêm các nội dung không được sự đồng ý của phía ông A. Trong khi đó ông A yêu cầu Tòa án xác minh thu thập các chứng cứ để làm rõ vấn đề cầm cố hay chuyển nhượng, cụ thể chuyển nhượng thì xác định giá tại thời điểm đó ở địa phương chuyển nhượng 01 công bằng bao nhiêu chỉ vàng và nếu có chuyển nhượng, thì phải thực hiện việc trước bạ sang tên vì đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1992. Nhưng quá trình đó ông Y không yêu cầu ông A hợp thức hóa trước bạ sang tên. Cho thấy các vấn đề chưa được các cấp Tòa án làm rõ chứng cứ để giải quyết một cách khách quan đúng quy định của pháp luật.
Tòa án ấp sơ thẩm giải quyết vụ án và tại bản án số 05/2015/DS-ST ngày 04/5/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh D tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của ông Y, công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác lập ngày 11/01/1994 diện tích 3.900m2, thuộc thửa 517, tờ bản đồ số 01, tọa lạc số 72 xã B, huyện C, tỉnh D.
Ông A kháng cáo yêu cầu hủy toàn bộ bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh D và trên cơ sở kháng cáo của ông A, Tòa án cấp cao tại thành phố H đã giải quyết và tại bản án phúc thẩm số 215/2015/DS-PT đã giải quyết chấp nhận kháng cáo và nhận định như sau: Ngày 09/12/1992 ông Nguyễn văn A được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 3.900m2, thửa 517, tờ bản đồ số 01 tọa lạc số 72 xã B, huyện C, tỉnh D. Đến ngày 11/01/1994 ông A ký vào “Tờ chuyển nhượng đất canh tác” với nội dung chuyển nhượng đất cho ông Y với giá 6 chỉ vàng 24k và đã giao đất cho ông Y quản lý sử dụng, mặc dù chưa sang tên nhưng ngày 09/3/2000 ông Y đã chuyển nhượng phần đất cho ông Nguyễn văn X với giá 2 cây vàng 24k canh tác khoản 11 năm, ông A đến chuộc lại đất thì ông Y không cho chuộc từ đó ông A lấy lại canh tác đến nay. Các chứng cứ xác định hợp đồng chuyển nhượng, xét về hợp đồng chuyển nhượng giữa ông A được xác lập 11/01/1994 bằng giấy viết tay, trong khi đó đất đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 09/12/1992 nhưng phía ông Y chuyển nhượng cũng không yêu cầu phía ông A trước bạ sang tên và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Bản án Phúc thẩm nhận định hợp đồng vi phạm điều kiện để được công nhận theo hướng dẫn tại điểm a4, tiểu mục 2.3, mục 2, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là không phù hợp với thực tế khách quan của vụ án. Song do hợp đồng chuyển nhượng xác lập sau 15/10/1993 nhưng lại không có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của UBND cấp có thẩm quyền là vi phạm một trong các điều kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó là vi phạm được hướng dẫn tại điểm a.6, tiểu mục 2.3, mục 2, phần II của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004. Tuy nhiên cấp sơ thẩm áp dụng tại điểm b.2, tiểu mục 2.2, phần II của Nghị quyết để công nhận hợp đồng chuyển nhượng là không phù hợp với sự thật khách quan của vụ án. Từ cơ sở trên bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố H tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 05/2015/DS-ST ngày 04/5/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh D.
Ngày 11/5/2016 Tòa án nhân dân tỉnh D thụ lý lại vụ án, cũng không có chứng cứ gì mới cũng là những chứng cứ cũ trước đây khởi kiện tranh chấp yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và bồi thường thiệt hại về tài sản” cũng nội dung như vấn đề nêu trên nhưng các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp hoàn toàn là bản photo không có bản gốc nhưng Tòa án vẫn tiếp tục thụ lý vụ án, mặc dù ông A đã có khiếu nại nhiều lần và yêu cầu ông Phạm Văn Y cung cấp bản gốc nhưng không cung cấp được cho Tòa án nhưng vẫn thụ lý giải quyết. Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2017/DS-ST ngày 26/7/2017 về việc yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhận định đã đủ căn cứ xác định được rằng giao dịch trên là chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà các bên thực hiện vào ngày 11/01/1994, trong khi toàn bộ các chứng cứ của vụ án không có gì khác so với lần giải quyết tại bản án số 05/2015/DS-ST của Tòa án nhân dân tỉnh D. Đã bị Tòa án cấp cao tại thành phố H hủy toàn bộ bản án sơ thẩm nêu trên để giải quyết lại đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Thế nhưng sau khi thụ lý Tòa án lại quyết định có phần vượt quá yêu cầu ban đầu của đương sự, những nội dung không có yêu cầu nhưng cũng đưa vào giải quyết cho thấy bản án sơ thẩm lần 2 của Tòa án tỉnh D giải quyết hoàn trái ngược với nhận định của bản án phúc thẩm lần thứ nhất của Tòa án cấp cao tại thành phố H và đương sự tiếp tục kháng cáo lần này bản án phúc thẩm số 90/2018/DS-PT ngày 10/5/2018 phần nhận định và cũng áp dụng căn cứ như bản án phúc thẩm số 215/2015/DS-PT ngày 14/12/2015 đó là áp dụng tại điểm b.2, tiểu mục 2.2, phần II của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 nhưng lại công nhận hợp đồng chuyển nhượng là phù hợp không coi là vô hiệu.
Với hai lần xét xử phúc thẩm của cấp cao tại thanh phố H áp dụng các căn cứ pháp luật giống nhau nhưng kết quả tuyên kết giải quyết lại khác nhau không đúng với những chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án mà các bên đã cung cấp.
Cùng một vụ án, cùng một nội dung, tài liệu và chứng cứ là như nhau, đáng chú ý hơn là cùng áp dụng một căn cứ pháp luật giống nhau nhưng Tòa lại tuyên án trái ngược nhau. Người viết thấy rằng đối với kết quả giải quyết như trên thì bản án sơ thẩm số 20//2017/DS-ST ngày 26/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh D và bản án số 90/2018/DS-PT ngày 10/5/2018 của Tòa án cấp cao tại thành phố H giải quyết không đảm bảo tính khách quan của vụ án đúng quy định của pháp luật gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp chính đáng của các bên đương sự.
Theo quan điểm của người viết cho rằng phần nhận định đánh giá chứng cứ trong vụ án và áp dụng căn cứ quy định tại a.6, tiểu mục 2.3, mục 2, phần II của Nghị Quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng là vô hiệu là phù hợp với quy định của pháp luật.
Lê Văn Ninh
Trưởng phòng 10, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng
Tin liên quan
TIN MỚI NHẤT
KIẾN NGHỊ, KHÁNG NGHỊ VÀ HDNV
- Kiến nghị áp dụng biện pháp phòng ngừa (28-10-2021)
- Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong giải quyết tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy (20-10-2021)
- V/v hướng dẫn áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án về tội xâm phạm sở hữu (06-10-2021)
- Hướng dẫn yêu cầu điều tra về tình tiết khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 51, điểm k, khoản 1, Điều 52 BLHS (24-09-2021)
- Giải đáp khó khăn vướng mắc trong công tác giải quyết vụ án hình sự trong thời gian thực hiện giản cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ (24-09-2021)
THÔNG BÁO
- Thông báo tuyển hợp đồng nhân viên Bảo vệ (06-01-2022)
- Thông báo tuyển hợp đồng nhân viên lái xe (19-11-2021)
- CV 2733/UBND-VX ngay 28/10/2021 ve viec phong ngua lay nhiem Covid-19 trong can bo, cong chuc, vien chuc, nguoi lao dong (28-10-2021)
- Thông báo tuyển hợp đồng nhân viên Bảo vệ, Tạp vụ (10-03-2021)
- Công văn số 857/VKS-VP V/v thông báo kết quả xét, đề nghị công nhận sáng kiến cấp cơ sở năm 2020 (20-11-2020)