Để có trải nghiệm tốt hơn trên trên trang thông tin điện tử VKSND tỉnh Sóc Trăng, bật JavaScript trong trình duyệt của bạn
Bật javasrcipt trình duyệt Chrome Bật javasrcipt trình duyệt IE
chi tiết tin

Vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên đối với phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố

Trong giai đoạn truy tố này, phúc cung bị can là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát do Kiểm sát viên được phân công thực hiện ngay sau khi Cơ quan điều tra ra Bản kết luận điều tra đề nghị truy tố và chuyển hồ sơ vụ án sang Viện kiểm sát.

Phúc cung là một hoạt động nghiệp vụ nhưng chưa được quy định cụ thể trong điều luật; tuy nhiên, hoạt động phúc cung được xác định và được thực hiện bởi Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong lĩnh vực hình sự để điều tra, giải quyết vụ án và được hình thành kể từ khi cán bộ điều tra trong giai đoạn điều tra, Kiểm sát viên trong giai đoạn truy tố khi thấy có căn cứ để nghi ngờ tính khách quan, chính xác của các tài liệu, chứng cứ của vụ án.

Vì vậy, hoạt động phúc cung mang ý nghĩa là “hỏi cung lại bị can nhằm kiểm tra, xác định lại những điều chưa chắc chắn, những điều còn nghi vấn, chưa được sáng tỏ trong các lần hỏi cung trước”  và hoạt động phúc cung do “cán bộ điều tra làm trước khi hoàn thành hồ sơ chuyển sang Viện kiểm sát hoặc do Kiểm sát viên làm trước khi ra quyết định truy tố bị can trước Tòa án để xét xử” ( Theo Từ điển Luật học, trang tr.377).

Phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố là gì?

Có thể hiểu phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố là hoạt động kiểm chứng lại tính đúng đắn những lời khai của bị can trong vụ án hình sự, khi có sự nghi ngờ về tính khách quan, chính xác của những lời khai trước đó; đó là hoạt động điều tra, xét hỏi nhằm kiểm tra, xác minh lại những lời khai của bị can còn nghi vấn do Kiểm sát viên thực hiện theo trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định.

Phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố nhằm giải quyết những nghi ngờ, mâu thuẫn và vướng mắc hoặc cần củng cố, bổ sung thêm tài liệu, chứng cứ trong quá trình điều tra, giải quyết vụ án nói chung và lời khai của bị can nói riêng; do đó, phúc cung bị can trước khi xây dựng bản cáo trạng là nhiệm vụ của Kiểm sát viên, có ý nghĩa quan trọng đảm bảo tính khách quan khi buộc tội. Khi có căn cứ, cơ sở để nghi ngờ hoặc cần củng cố, bổ sung tài liệu, chứng cứ nhưng không thực hiện hoạt động phúc cung bị can trước khi truy tố là thiếu trách nhiệm khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố của Kiểm sát viên.

Căn cứ pháp lý để Kiểm sát viên thực hiện hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố được quy định tại Điều 16, 17 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và Điều 236, 237 BLTTHS năm 2015.

Đây là những quy định mở để Viện kiểm sát thực hiện triệt để nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá trình kiểm sát điều tra và truy tố vụ án trước khi chuyển sang Tòa án để xét xử, nhất là đối với những vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, nhiều bị can, nhiều tài liệu, chứng cứ mâu thuẫn, thu thập ở nhiều nơi, nghi ngờ tính khách quan của tài liệu, chứng cứ. Vì vậy, Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra, thực hiện hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố là rất cần thiết, góp phần đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.

 

Lý do cần thực hiện hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố

Thứ nhất, điều kiện tiên quyết để có hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố là trong hồ sơ vụ án Kiểm sát viên phải phát hiện có sự mâu thuẫn, xung đột giữa các tài liệu, chứng cứ hoặc cần củng cố, bổ sung các tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (sau đây gọi tắt là Cơ quan điều tra) thu thập nói chung và lời khai trước đó của bị can nói riêng, dẫn đến nghi ngờ tính chính xác, khách quan của các tài liệu, chứng cứ đó. Vì vậy, đòi hỏi Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, đánh giá đúng, đầy đủ các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập để phát hiện.

Thứ hai, trong các vụ án hình sự, nhất là vụ án có Luật sư tham gia bào chữa, vụ án được dư luận xã hội quan tâm, vụ án mà người phạm tội là đối tượng côn đồ, ranh mãnh, nguy hiểm, người có chức vụ, quyền hạn, địa vị xã hội,... thường xảy ra sự bất nhất trong lời khai, lời cung để quanh co, chối tội hoặc đùn đẩy trách nhiệm; khi nghiên cứu hồ sơ, Kiểm sát viên cần phân tích, đánh giá đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ kết hợp so sánh, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ khác để buộc tội; hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố cần được thực hiện có kế hoạch, phương pháp cụ thể với từng loại vụ án, từng loại bị can; phúc cung bị can tốt trong giai đoạn truy tố làm tiền đề xây dựng cáo trạng có chất lượng, hạn chế hoặc có thể dự đoán trước được việc bị can có thể phản cung tại phiên tòa khi tham gia xét xử vụ án.

Thứ ba, Kiểm sát viên phải nhìn nhận hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố là hoạt động cần thiết để phổ quát lại nội dung, tình tiết vụ án, xác minh, kiểm chứng lại chứng cứ đã thu thập được; trong một số trường hợp, hoạt động phúc cung bị can tốt trong giai đoạn truy tố giúp phát hiện được nhiều tình tiết mới, lời khai mới, có thể là bị can mới, tội mới,... mà trước đó chưa hoặc không thể khai với Cơ quan điều tra vì một lý do khách quan hay chủ quan nào đó của bị can.

Thứ tư, qua hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố, hỗ trợ Kiểm sát viên phát hiện có hay không có trong quá trình điều tra vụ án Cơ quan điều tra có bức cung, nhục hình, mớm cung, dụ cung,... đối với bị can; giúp phát hiện các vi phạm trong quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ hoặc những tài liệu, chứng cứ cần được củng cố, bổ sung kịp thời; đồng thời, có biện pháp tác động, phối hợp với Cơ quan điều tra rút kinh nghiệm, khắc phục vi phạm để thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn trong các vụ án hình sự tiếp theo.

Thứ năm, hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố tốt sẽ hỗ trợ và tạo tâm thế tự tin cho Kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa xét xử vụ án, nắm chắc nội dung, tình tiết vụ án để tranh luận, đối đáp với người bào chữa có chất lượng và thuyết phục; tạo được hình ảnh, bản lĩnh, tự tin, uy nghiêm của cơ quan thực hành quyền công tố trước Hội đồng xét xử, người bào chữa và những người tham gia, tham dự khác tại phiên tòa, nhất là các phiên tòa xét xử lưu động.

Thứ sáu, khi Kiểm sát viên coi trọng hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố, nó sẽ trở thành một hoạt động nghiệp vụ thường xuyên, quan trọng để điều tra, kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi giải quyết vụ án; góp phần thực hiện chủ trương “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” của Viện kiểm sát, cũng như góp phần hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi Kiểm sát viên tham gia xét xử tại phiên tòa.

Thứ bảy, hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố giúp Kiểm sát viên nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình đối với từng vụ án khi được phân công thụ lý giải quyết, nhất là vụ án phức tạp, dư luận quan tâm,... bởi đây là giai đoạn cuối cùng mà Kiểm sát viên có thể thực hiện các hoạt động kiểm sát điều tra, củng cố, bổ sung hoặc sửa chữa các tài liệu, chứng cứ cần thiết để buộc tội, giải quyết các vấn đề về vật chứng,... trước khi chuyển hồ sơ sang Tòa án để xét xử.

Thứ tám, Kiểm sát viên phải nhận thức được hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố chính là hoạt động xác minh, củng cố, bổ sung chứng cứ khi buộc tội mang tính chất quyết định trong một số trường hợp; bởi lẽ, khi có mâu thuẫn trong các lần khai cung trước so với phúc cung thì Kiểm sát viên có nhiệm vụ làm rõ việc khai cung trước hay lời khai khi phúc cung là đúng sự thật và phải căn cứ vào đó để quyết định việc truy tố nếu có tội hoặc quyết định đình chỉ điều tra nếu không đủ chứng cứ buộc tội.

Một số vấn đề cần chú ý để nâng cao chất lượng hoạt động phúc cung bị can

- Phải thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ ngay từ giai đoạn có nguồn tin báo về tội phạm để phân loại, xử lý chặt chẽ; đến giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án, Kiểm sát viên cần theo sát tiến trình điều tra của Cơ quan điều tra cả trên hồ sơ lẫn hoạt động điều tra thực tế; kịp thời đề ra bản yêu cầu điều tra và kiểm tra việc thực hiện, thường xuyên sơ kết điều tra, đánh giá tiến trình điều tra và phối hợp với Cơ quan điều tra để xử lý nhanh, kịp thời các vướng mắc về các tài liệu, chứng cứ trong quá trình điều tra. Khi Kiểm sát viên nắm chắc nội dung, tình tiết, chứng cứ của vụ án,... làm tiền đề xây dựng kế hoạch, phương pháp phù hợp, thực hiện hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố để củng cố, bổ sung thêm chứng cứ buộc tội.

- Phải gắn trách nhiệm nghề nghiệp với từng bị can trong từng vụ án cụ thể, có vậy Kiểm sát viên mới thấy được tầm quan trọng của công việc, tầm quan trọng của việc truy tố, buộc tội đúng hay sai một con người và hệ quả của nó. Do đó, việc nâng cao nhận thức, có ý thức trách nhiệm khi được phân công thụ lý, giải quyết vụ án là rất quan trọng; tạo tiền đề, từng bước xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên có năng lực, bản lĩnh, có tầm và có tâm với nghề.

- Phải tăng cường công tác phối kết hợp với Cơ quan điều tra và các cơ quan hữu quan khác, từ đó tạo hành lang pháp lý “nội bộ” phối hợp chặt chẽ, kịp thời trong quá trình điều tra, giải quyết vụ án; làm cơ sở cho hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố của Kiểm sát viên đạt hiệu quả cao hơn.

- Phải chú trọng việc nghiên cứu, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ về các văn bản luật, dưới luật có liên quan để phục vụ công tác; có nắm được các quy định của pháp luật mới thực hiện được chức năng, nhiệm vụ nói chung và hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố nói riêng đạt hiệu lực, hiệu quả cao.

- Phải trước khi tiến hành hoạt động phúc cung bị can, Kiểm sát viên phải luôn luôn có kế hoạch, có phương pháp, có các dự kiến tình huống phát sinh và nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án; có làm tốt công tác chuẩn bị mới hỗ trợ Kiểm sát viên thêm tự tin, bản lĩnh và không bị lúng túng khi phúc cung, nhất là đối với bị can ranh mãnh, tinh vi, bị can là người có chức vụ, quyền hạn, có địa vị trong xã hội.

- Kiểm sát viên phải luôn chủ động, nắm tiến trình điều tra, thu thập chứng cứ của Cơ quan điều tra xuyên suốt vụ án; tránh ý thức chủ quan, thụ động, chờ hồ sơ đến rồi mới nghiên cứu thì chưa thể phát hiện, dự liệu được hết những nội dung, yêu cầu về tài liệu, chứng cứ cần phải sửa chữa, bổ sung hoặc củng cố kịp thời để truy tố.

Những kỹ năng khi nghiên cứu hồ sơ vụ án để phục vụ hoạt động phúc cung

Một là, đối với các tài liệu đọc được, cần đọc chậm, đọc kỹ và đọc nhiều lần cùng một tài liệu, cần thiết có thể gạch chân những câu, chữ hoặc đoạn văn cần lưu ý; Kiểm sát viên tránh đọc qua loa, đại khái các tài liệu, nhất là các tài liệu chữ xấu, khó hiểu hoặc bản photo bị mờ,... thì sẽ không thể hiểu hết ý nghĩa của câu, chữ hoặc bỏ sót những nội dung quan trọng trong tài liệu; trường hợp này Kiểm sát viên có thể linh hoạt mời người cung cấp tài liệu giải thích, làm rõ nội dung.

Hai là, đối với các tài liệu nghe được (băng, đĩa, ghi âm, các thiết bị điện tử): Kiểm sát viên cần phối hợp hài hòa giữa việc nghe kết hợp với việc đọc (nói) của tài liệu được nghe; khi nghe, cần chú ý đến thời gian diễn ra sự kiện, những người (nhân vật) tham gia sự kiện, nơi diễn ra sự kiện, nội dung cuộc nói chuyện,... trong trường hợp nghe không rõ, không hiểu vì dùng từ địa phương,... thì cần phối hợp với người cung cấp tài liệu nghe được giải thích, làm rõ.

Ba là, đối với tài liệu nhìn được (hình ảnh, đĩa ghi hình, băng ghi hình, các thiết bị điện tử ghi hình khác hoặc hiện vật), trong một số trường hợp, người tham gia tố tụng cung cấp tài liệu là hình ảnh hoặc vật chứng để chứng minh cho yêu cầu của mình nên Kiểm sát viên không được xem nhẹ những tài liệu này, mà việc nhìn tài liệu hoặc hiện vật cũng cần kết hợp với việc đọc tài liệu để có thể hiểu được ý nghĩa, giá trị của hình ảnh, hiện vật đó; kết hợp hình ảnh và tài liệu khác, đối chiếu, so sánh với nhau để tìm sự mâu thuẫn và đồng nhất.

Bốn là, việc ghi chép, đánh dấu tài liệu, trong nhiều trường hợp, Kiểm sát viên phải thụ lý, giải quyết nhiều vụ án, nhiều hồ sơ cùng lúc; đặc biệt là các hồ sơ vụ án phức tạp, có lượng tài liệu lớn thì việc ghi chép những thông tin cần chú ý khi đọc tài liệu như: Tên tài liệu, số bút lục và những thông tin cần thiết là rất quan trọng; nếu việc ghi chép phục vụ dễ dàng việc tra cứu hồ sơ thì việc đánh dấu tài liệu để phục vụ tìm kiếm tài liệu trong hồ sơ hoặc một nội dung nào đó trong một tài liệu trong hồ sơ,... nhằm giúp nâng cao hiệu quả nghiên cứu hồ sơ vụ án cũng như nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án.

Năm là, việc so sánh, đối chiếu tài liệu trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, Cơ quan điều tra thu thập rất nhiều tài liệu trong hồ sơ, nhưng một số trường hợp không phải tất cả các tài liệu đó cũng là tài liệu có thể sử dụng làm chứng cứ nếu không tuân thủ trình tự, thủ tục thu thập theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, việc so sánh, đối chiếu tài liệu là so sánh giữa tài liệu này với tài liệu khác hoặc giữa tài liệu bản chính với bản sao chép lại,... giúp Kiểm sát viên đánh giá chính xác nội dung của tài liệu cũng như phát hiện các mâu thuẫn trong nội dung của tài liệu.

Sáu là, việc phân tích tài liệu, trong vụ án hình sự việc phân tích các tài liệu, chứng cứ thu thập được luôn luôn phải thực hiện, việc phân tích các tài liệu có thể sẽ tìm thấy được những tài liệu có thể bị xóa, cạo, sửa hoặc bị chèn lên,...; trong trường hợp này, Kiểm sát viên phải tìm hiểu, phân tích cho ra là việc xóa, cạo, sửa, chèn lên tài liệu do ai làm?; mục đích là gì và có lợi gì với người đó?; nội dung bị xóa, cạo, sửa, chèn lên là gì?; có cần thiết phải giám định hay không?,... vì vậy, Kiểm sát viên phải phân tích kỹ, đánh giá kỹ các tài liệu mà Cơ quan điều tra thu thập được, để thấy được nội dung của tài liệu, của hồ sơ vụ án cũng như thấy rõ được bản chất của sự việc.

Trong tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, tinh vi, thủ đoạn và nguy hiểm; đòi hỏi mỗi Kiểm sát viên phải luôn nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của mình khi giải quyết vụ án, nhất là việc thực hiện các kỹ năng nghiên cứu kỹ các hồ sơ vụ án, phải có sự đầu tư, tìm tòi, nghiên cứu để phát hiện kịp thời những mâu thuẫn, xung đột trong hồ sơ vụ án, phục vụ tốt cho hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố có hiệu quả, để xây dựng cáo trạng truy tố có chất lượng./.

(Trích bài viết:"Vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên đối với hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố" của tác giả Nguyễn Quang Thái, VKSND huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Tạp chí Kiểm sát số 14/2018).

(kiemsat.vn)


Tin liên quan

» Đồng chí Nguyễn Hải Trâm giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực tỉnh ủy Tiền Giang
» INFOGRAPHICS: Tóm tắt tiểu sử Chánh án Toà án nhân dân Tối cao Lê Minh Trí
» [INFOGRAPHICS] Tiểu sử Bí thư Trung ương Đảng, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao Lê Minh Trí
» [INFOGRAPHICS] Tiểu sử Tân Bộ trưởng Bộ Công an Lương Tam Quang
» [INFOGRAPHICS] Tiểu sử Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long