Để có trải nghiệm tốt hơn trên trên trang thông tin điện tử VKSND tỉnh Sóc Trăng, bật JavaScript trong trình duyệt của bạn
Bật javasrcipt trình duyệt Chrome Bật javasrcipt trình duyệt IE
chi tiết tin

Tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm

Trước đây, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 không quy định chế định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Vì vậy, khi kết thúc thời hạn giải quyết, Cơ quan điều tra chỉ có một trong hai lựa chọn là ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc là ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS 2015) ra đời đã khắc phục được nhiều bất cập, hạn chế trong công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, tạo cơ sở pháp lý cho việc tiến hành hoạt động này một cách thống nhất, khách quan, bảo đảm đúng căn cứ pháp luật. Điều 147 BLTTHS 2015 quy định về thời hạn, thủ tục giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đã quy định “Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định: (1) Quyết định khởi tố vụ án hình sự; (2) Quyết định không khởi tố vụ án hình sự; (3) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Trường hợp vụ việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố có thể kéo dài nhưng không quá 02 tháng. Trường hợp chưa thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh trong thời hạn quy định tại khoản này thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền có thể gia hạn một lần nhưng không quá 02 tháng.

Theo quy định này, khi hết thời hạn, Cơ quan điều tra phải ra một trong các quyết định khởi tố vụ án hình sự; không khởi tố vụ án hình sự hoặc tạm đình chỉ. Trong đó, tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là quy định hoàn toàn mới, lần đầu tiên được thể chế hóa vào BLTTHS. Đây là một hướng giải quyết mới, hoàn toàn phù hợp với thực tiễn, mở ra cơ sở pháp lý cho việc tạm ngừng hoạt động xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố khi đủ những điều kiện luật định. Điều đó đã chấm dứt câu chuyện tạm dùng việc giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 17 Quyết định số 1319/QĐ-BCA-C41, ngày 20/3/2015 của Bộ Công an quyết định ban hành Quy trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong Công an nhân dân, nếu thuộc trường hợp không đủ cơ sở để khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.

Tuy nhiên, Điều 148 BLTTHS 2015 cũng quy định rất cụ thể về căn cứ tạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố như sau:

1. Hết thời hạn quy định tại Điều 147 của Bộ luật này, cơ quan có thẩm quyền giải quyết quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả;

b) Đã yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng chưa có kết quả…

Đồng thời khoản 2 Điều 1 luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự bổ sung điểm c vào sau điểm b khoản 1 Điều 148 như sau:“c) Không thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh…”

Theo đó, chỉ được tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố khi có một trong các căn cứ là: đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả, hoặc đã yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng chưa có kết quả, hoặc vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh. Đây là những nguyên nhân khách quan thường gặp nhất có thể làm kéo dài thời gian giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.

Trên thực tiễn, vẫn còn có trường hợp khác thường làm kéo dài thời gian giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là: người bị tố giác cố tình trốn tránh hoặc đã rời khỏi nơi cư trú, nơi làm việc, người tố giác, báo tin về tội phạm sau khi tố giác, báo tin về tội phạm rời khỏi nơi cư trú, nơi làm việc… mà không thể triệu tập để lấy lời khai làm căn cứ giải quyết tiếp theo. Khi đối chiếu với căn cứ không khởi tố vụ án hình sự quy định tại Điều 157, tạm đình chỉ giải quyết tố giác, báo tin về tội phạm Điều 148 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì chưa đủ căn cứ xác định “có hay không có sự việc phạm tội” nên không thể ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, hoặc Tạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Trong trường hợp này thì áp dụng điểm b, khoản 3, Điều 16 Thông tư số 28/2020/TT-BCA ngày 26/3/2020 của Bộ Công an, quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, của lực lượng công an nhân dân, Điều tra viên báo cáo lãnh đạo, chỉ huy trực tiếp để đề xuất Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra được phân công trao đổi bằng văn bản với Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp để thống nhất quan điểm giải quyết. Văn bản trao đổi thể hiện rõ kết quả việc kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; việc đánh giá các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được; những vấn đề gây cản trở cho việc làm sáng tỏ nội dung vụ việc nhưng không thuộc các trường hợp pháp luật quy định là căn cứ để ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; đường lối giải quyết (quan điểm Tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố):

- Trường hợp Viện kiểm sát đồng ý thì sau khi Viện kiểm sát có văn bản trao đổi thống nhất với đường lối giải quyết thì Điều tra viên dự thảo Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, kèm theo hồ sơ, tài liệu liên quan báo cáo lãnh đạo, chỉ huy trực tiếp cho ý kiến trước khi trình Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra được phân công duyệt, ký.

- Trường hợp Viện kiểm sát không đồng ý và đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh, giải quyết tiếp thì Điều tra viên phải thực hiện yêu cầu kiểm tra, xác minh của Viện kiểm sát.

- Trường hợp Viện kiểm sát không đồng ý và không có yêu cầu kiểm tra, xác minh thì Điều tra viên báo cáo lãnh đạo, chỉ huy để đề xuất Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra được phân công có văn bản đề nghị Viện kiểm sát tiến hành họp hai ngành tư pháp để thống nhất quan điểm, trong trường hợp không thể thống nhất thì báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của hai ngành tư pháp cấp trên.

Trên đây là quan điểm cá nhân của người viết trong quá trình nghiên cứu BLTTHS 2015, và quá trình kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về phạm, kiến nghị khởi tố đối với trường hợp hết thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhưng chưa đủ căn cứ để ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, mà cũng không có những căn cứ để tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố như quy định tại Điều 148 BLTTHS 2015, xin được đưa ra để cùng trao đổi với các đồng nghiệp nhằm có được cách hiểu, vận dụng pháp luật chính xác, đồng thời nâng cao hơn nhận thức của bản thân. Rất mong nhận được sự quan tâm, trao đổi của các đồng chí./.

KSV - Âu Hoàng Mến


Tin liên quan

» VKSND huyện châu thành tăng cường công tác kiến nghị phòng ngừa trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Toà án
» Một số giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp
» Phòng 9 VKSND tỉnh thực hiện tốt công tác kháng nghị, kiến nghị
» Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát, sửa bản án sơ thẩm
» Kiến nghị thu hồi các quyết định thi hành án, quyết định giải tỏa tài sản của người phải thi hành án