THỐNG KÊ & CNTT
SỔ TAY KIỂM SÁT VIÊN
CĂN CỨ KHÔNG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
Theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành thì các yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản bao gồm 04 yếu tố: Mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể, khách thể. Như vậy một hành vi được coi là tội phạm phải thỏa mãn đầy đủ 4 yếu tố trên và khi đã được coi là tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự cho hành vi của mình theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, thực tiễn trong việc giải quyết tin báo tội phạm tại địa phương, khi ra các quyết định không khởi tố vụ án hình sự, khi áp dụng các khoản 2, 3 Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017) theo quan điểm cá nhân viết lại có những bất cập xảy ra, như sau:
Tại khoản 3 Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự, căn cứ không khởi tố vụ án hình sự “người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự”. Theo quy định hiện hành, tại Điều 12 Bộ luật hình sự, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là dấu hiệu bắt buộc để xác định năng lực chịu trách nhiệm hình sự của chủ thể thực hiện hành vi được mô tả trong mặt khách quan của tội phạm. Nếu người thực hiện hành vi chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, đồng nghĩa với việc hành vi của chủ thể thực hiện hành vi đương nhiên không cấu thành tội phạm.
Tại khoản 2 Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự quy định căn cứ không khởi tố vụ án hình sự “Hành vi không cấu thành tội phạm”, hành vi không cấu thành tội phạm là hành vi của người hoặc pháp nhân không thoả mãn một trong bốn yếu tố cấu thành một tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự. Theo quan điểm của cá nhân, hành vi không cấu thành tội phạm có thể liệt kê ra, gồm: Người thực hiện hành vi gây thiệt hại không có năng lực trách nhiệm hình sự, không có lỗi; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do sự kiện bất ngờ; hành vi thực hiện là hành vi phòng vệ chính đáng; hành vi thực hiện trong tình thế cấp thiết và người thực hiện hành vi phạm tội chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự,…
Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng khoản 2, 3 Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 lại ghi nhận là hai cứ độc lập để ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Như vậy, việc quy định hai căn cứ như hiện nay theo quan điểm cá nhân là chưa thực sự phù hợp bởi “hành vi không cấu thành tội phạm” đã bao gồm trường hợp “người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự”.
Có thể đơn cử trường hợp người thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với giá trị 5.000.000 đồng. Tuy nhiên, tại thời điểm thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì người thực hiện hành vi trên chỉ 15 tuổi, đối chiếu với quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các Điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”. Nhận thấy hành vi trên không đảm bảo 04 yếu tố cấu thành tội phạm mà cụ thể là chủ thể thực hiện hành vi chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, cùng với loại tội phạm mà người thực hiện hành vi trên chỉ là tội phạm ít nghiêm trọng và đương nhiên hành vi trên không cấu thành tội phạm.
Qua đó nhận thấy có nên chăng việc cần thiết quy định thành hai khoản tách bạch khác nhau, trong khi khoản 3 Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự đã là 1 phần trong khoản 2 Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự.
Trên đây là quan điểm cá nhân trong quá trình nghiên cứu, áp dụng pháp luật tại Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ở địa phương. Bài viết, tác giả rất mong sự đóng góp ý kiến từ các bạn đọc giả.
Thanh Tòng - VKSND thị xã Ngã Năm
Tin liên quan
TIN MỚI NHẤT
KIẾN NGHỊ, KHÁNG NGHỊ VÀ HDNV
- Kiến nghị áp dụng biện pháp phòng ngừa (28-10-2021)
- Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong giải quyết tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy (20-10-2021)
- V/v hướng dẫn áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án về tội xâm phạm sở hữu (06-10-2021)
- Hướng dẫn yêu cầu điều tra về tình tiết khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 51, điểm k, khoản 1, Điều 52 BLHS (24-09-2021)
- Giải đáp khó khăn vướng mắc trong công tác giải quyết vụ án hình sự trong thời gian thực hiện giản cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ (24-09-2021)
THÔNG BÁO
- Thông báo kết quả phúc khảo và công nhận kết quả trúng tuyển kỳ thi tuyển công chức nghiệp vụ kiểm sát ngành KSND năm 2024 (12-03-2025)
- Quyết định về việc giao dự toán tiền lương, quỹ tiền thưởng của biên chế năm 2025 (27-12-2024)
- Thông báo nội dung ôn tập kỳ thi tuyển công chức nghiệp vụ kiểm sát năm 2024 (18-11-2024)
- Thông báo về việc tuyển dụng công chức nghiệp vụ Kiểm sát ngành Kiểm sát nhân dân năm 2024 (11-11-2024)
- Thông báo điều chỉnh, bổ sung kế hoạch tuyển dụng công chức nghiệp vụ kiểm sát năm 2024 (31-10-2024)